[PR]上記の広告は3ヶ月以上新規記事投稿のないブログに表示されています。新しい記事を書く事で広告が消えます。
Có 2 loại hoàng bá: Phellodendron amurense Ruprecht (còn gọi là hoàng nghiệt, quang hoàng bá) và cây xuyên hoàng bá – Phellodendron chinensis Schneider (còn gọi là hoàng bì thụ) thuộc họ Cam – Rutaceae.
Hoàng bá là cây gỗ, to, cao 10-25m, đường kính thân tới 50cm, cành rất phát triển, vỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt, lớp bần dày, mềm, có đường rách dọc lung tung, vỏ màu vàng tươi. Lá kép lông chim, mọc đối có 5-13 lá chét hình trứng hoặc mũi mác, dài 5-12cm, rộng 3-4,5cm, mép có răng cưa nhỏ hoặc hình gợn sóng, mặt trên màu lục xám, mặt dưới màu xanh nhạt, phần gốc của gân giữa mang lông che chở mềm. Hoa nhỏ màu vàng lục hoặc vàng nhạt, mẫu 5, hoa đơn tính, khác gốc. Qủa mọng, hình cầu, khi chín có màu tím đen, có mùi thơm đặc biệt. Mùa hoa vào tháng 5-7, mùa quả vào tháng 9-11.
Xuyên hoàng bá – Phellodendron chinensis Schneider cây nhỏ và thấp hơn, vỏ màu xám, mỏng và không có bần dày. Có 7 – 15 lá chét, mặt dưới có lông mềm, dài và rậm.
Cây hoàng bá có nhiều ở vùng Đông Bắc Á Châu, được trồng nhiều ở Trung Quốc và Nhật Bản, ở Nga (vùng Seberi). Ta đã di thực trồng thí nghiệm những năm 1960 ở Lào Cai (Sa Pa), lai Châu (Sìn Hồ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Lâm Đồng (Đà Lạt) thành công, thấy cây mọc tốt và khỏe. Đang có hướng phát triển cây này.
Cây hoàng bá ưa khí hậu mát, chịu được rét, thích hợp với vùng núi cao trên 1000m, thường rụng lá về mùa đông, thích nghi với đất màu, yêu cầu phân bón cao. Trồng bằng hạt, gieo ở vườn ươm, sau 1 năm mới đánh ra trồng.
Hái vỏ cây đã trồng trên 10 năm, hái vào mùa hạ, cạo sạch lớp bần, cắt thành từng miếng phơi khô hoặc sấy khô. Khi dung, rửa sạch, ủ mềm, thái mỏng,phơi khô, tẩm rượu sao vàng hoặc sao cháy.
Vỏ thân (Cortex Phellodendri)
Vị hoàng bá hiện nay còn phải nhập, về mặt thương phẩm có 2 loại hoàng bá:
Dược liệu là những mảnh vỏ đã loại lớp bần, dày 1,5 – 4mm, mặt ngoài màu vàng lục có vết rãnh dọc, bần còn sót lại hơi đàn hồi màu vàng xanh, mặt trong màu vàng xám, cứng, vết bẻ có xơ, màu vàng tươi. Mùi hơi thơm, vị rất đắng.
Vi phẫu:
Cắt ngang từ ngoài vào trong có:lớp bần chứa sắc tố màu vàng nâu và có chứa calci oxalat hình lập phương. Lớp vỏ hẹp có rải rác sợi, tế bào mô cứng và tế bào thể cứng, mô mềm có chứa tinh bột và calci oxalat hình lập phương. Libe chiếm phần lớn, tia ruột có 2-3 hàng tế bào, sợi libe xếp thành bó gián đoạn hoặc liên tục tạo thành dải, những bó libe có chứa calci oxalat hình lập phương. Có nhiều tế bào chứa chất nhày.
Bột: Màu vàng lục, có huỳnh quang màu vàng sáng. Soi kính hiển vi thấy những đặc điem: đám sọi màu vàng khá nhiều, đường kín của sợi 15-24μm đến 38μm, vách rất dày, hóa gỗ, ống trao đổi thường không rõ. Sợi chúa tinh thể hình lập phương, tế bào chứa tinh thể có vách dày không đồng đều. Tế bào mô cưnngs tập trang thành từng đám màu vàng tươi, có khi đứng riêng,có một số tế bào thể cứng. Calci oxalat hình lập phương rất nhiều. Tế bào chứa chất nhày thấy ít, hình cầu, đường kính 32-42 μm, gặp nước không biến đổi rõ. Ngoài ra còn có tinh bột hình cầu nhỏ và các ống sàng.
Dược liệu là những mảnh dày 1 – 3mm, mặt ngoài màu vàng nâu nhạt có rãnh dọc, có những nốt sần màu tím nâu, hình thoi giữa các vết rách dọc. Phần bần còn sót không có tính đàn hồi, mặt trong màu vàng bẩn hơi óng ánh.
Vi phẫu
Phần vỏ chứa nhiều tế bào mô cứng. Libe có ít tế bào mô cứng, tia ruột thường ngoằn ngoèo.
Bột: Có nhiều tế bào thể cứng, đường kính 40 – 128μm, có ống trao đổi rõ; tế bào chứa chất nhày màu vàng, phần nhiều đứng rải rác, gặp nước dần trương lên thành hình tròn đường kính 40 – 72μm, có khi thấy tế bào chứa chất nhày phình to và rách.
Có 2 loại hoàng bá: Phellodendron amurense Ruprecht (còn gọi là hoàng nghiệt, quang hoàng bá) và cây xuyên hoàng bá – Phellodendron chinensis Schneider (còn gọi là hoàng bì thụ) thuộc họ Cam – Rutaceae.
Hoàng bá là cây gỗ, to, cao 10-25m, đường kính thân tới 50cm, cành rất phát triển, vỏ màu nâu nhạt hoặc xám nhạt, lớp bần dày, mềm, có đường rách dọc lung tung, vỏ màu vàng tươi. Lá kép lông chim, mọc đối có 5-13 lá chét hình trứng hoặc mũi mác, dài 5-12cm, rộng 3-4,5cm, mép có răng cưa nhỏ hoặc hình gợn sóng, mặt trên màu lục xám, mặt dưới màu xanh nhạt, phần gốc của gân giữa mang lông che chở mềm. Hoa nhỏ màu vàng lục hoặc vàng nhạt, mẫu 5, hoa đơn tính, khác gốc. Qủa mọng, hình cầu, khi chín có màu tím đen, có mùi thơm đặc biệt. Mùa hoa vào tháng 5-7, mùa quả vào tháng 9-11.
Xuyên hoàng bá – Phellodendron chinensis Schneider cây nhỏ và thấp hơn, vỏ màu xám, mỏng và không có bần dày. Có 7 – 15 lá chét, mặt dưới có lông mềm, dài và rậm.
Cây hoàng bá có nhiều ở vùng Đông Bắc Á Châu, được trồng nhiều ở Trung Quốc và Nhật Bản, ở Nga (vùng Seberi). Ta đã di thực trồng thí nghiệm những năm 1960 ở Lào Cai (Sa Pa), lai Châu (Sìn Hồ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Lâm Đồng (Đà Lạt) thành công, thấy cây mọc tốt và khỏe. Đang có hướng phát triển cây này.
Cây hoàng bá ưa khí hậu mát, chịu được rét, thích hợp với vùng núi cao trên 1000m, thường rụng lá về mùa đông, thích nghi với đất màu, yêu cầu phân bón cao. Trồng bằng hạt, gieo ở vườn ươm, sau 1 năm mới đánh ra trồng.
Hái vỏ cây đã trồng trên 10 năm, hái vào mùa hạ, cạo sạch lớp bần, cắt thành từng miếng phơi khô hoặc sấy khô. Khi dung, rửa sạch, ủ mềm, thái mỏng,phơi khô, tẩm rượu sao vàng hoặc sao cháy.
Vỏ thân (Cortex Phellodendri)
Vị hoàng bá hiện nay còn phải nhập, về mặt thương phẩm có 2 loại hoàng bá:
Dược liệu là những mảnh vỏ đã loại lớp bần, dày 1,5 – 4mm, mặt ngoài màu vàng lục có vết rãnh dọc, bần còn sót lại hơi đàn hồi màu vàng xanh, mặt trong màu vàng xám, cứng, vết bẻ có xơ, màu vàng tươi. Mùi hơi thơm, vị rất đắng.
Vi phẫu:
Cắt ngang từ ngoài vào trong có:lớp bần chứa sắc tố màu vàng nâu và có chứa calci oxalat hình lập phương. Lớp vỏ hẹp có rải rác sợi, tế bào mô cứng và tế bào thể cứng, mô mềm có chứa tinh bột và calci oxalat hình lập phương. Libe chiếm phần lớn, tia ruột có 2-3 hàng tế bào, sợi libe xếp thành bó gián đoạn hoặc liên tục tạo thành dải, những bó libe có chứa calci oxalat hình lập phương. Có nhiều tế bào chứa chất nhày.
Bột: Màu vàng lục, có huỳnh quang màu vàng sáng. Soi kính hiển vi thấy những đặc điem: đám sọi màu vàng khá nhiều, đường kín của sợi 15-24μm đến 38μm, vách rất dày, hóa gỗ, ống trao đổi thường không rõ. Sợi chúa tinh thể hình lập phương, tế bào chứa tinh thể có vách dày không đồng đều. Tế bào mô cưnngs tập trang thành từng đám màu vàng tươi, có khi đứng riêng,có một số tế bào thể cứng. Calci oxalat hình lập phương rất nhiều. Tế bào chứa chất nhày thấy ít, hình cầu, đường kính 32-42 μm, gặp nước không biến đổi rõ. Ngoài ra còn có tinh bột hình cầu nhỏ và các ống sàng.
Dược liệu là những mảnh dày 1 – 3mm, mặt ngoài màu vàng nâu nhạt có rãnh dọc, có những nốt sần màu tím nâu, hình thoi giữa các vết rách dọc. Phần bần còn sót không có tính đàn hồi, mặt trong màu vàng bẩn hơi óng ánh.
Vi phẫu
Phần vỏ chứa nhiều tế bào mô cứng. Libe có ít tế bào mô cứng, tia ruột thường ngoằn ngoèo.
Bột: Có nhiều tế bào thể cứng, đường kính 40 – 128μm, có ống trao đổi rõ; tế bào chứa chất nhày màu vàng, phần nhiều đứng rải rác, gặp nước dần trương lên thành hình tròn đường kính 40 – 72μm, có khi thấy tế bào chứa chất nhày phình to và rách.
Thuốc Hapacol sủi là gì ? thành phần thuốc gồm những gì ? cách sử dụng thuốc như thế nào ? giá sản phẩm là bao nhiêu ? ............... là những câu hỏi khách hàng hay gửi mail đến trungtamthuoc . Bài viết này , trungtamthuoc xin giới thiệu Thuốc Hapacol sủi để giúp quý khách hàng giải đáp những câu hỏi trên .
Paracetamol.................................... 500 mg
Tá dược vừa đủ................................... 1 viên
(Acid tartaric, acid citric khan, aspartam, lactose khan, đường sunnet, natri hydrocarbonat, ludipress LCE, effer soda, natri benzoat, PEG 6000, bột hương cam, talc, PVP K30).
Điều trị các triệu chứng đau trong các trường hợp: đau đầu, đau nửa đầu, đau răng, đau nhức do cảm cúm, đau họng, đau nhức cơ xương, đau do viêm khớp, đau sau khi tiêm ngừa hay nhổ răng. Hạ sốt ở bệnh nhân bị cảm hay những bệnh có liên quan đến sốt.
Hòa tan viên thuốc trong lượng nước tuỳ thích đến khi hết sủi bọt. Khoảng cách giữa 2 lần uống phải hơn 4 giờ và không uống quá 8 viên/ ngày.
Người lớn và trẻ em > 12 tuổi: uống 1 viên/ lần.
Đau nhiều: người lớn có thể uống 2 viên/ lần.
* Trường hợp bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinin < 10 ml /phút), khoảng cách giữa các liều uống phải ít nhất là 8 giờ.
Hoặc theo chỉ dẫn của Thầy thuốc.
Lưu ý:
* Liều tối đa/ 24 giờ: không quá 4 g, khoảng cách giữa 2 lần uống thuốc phải hơn 4 giờ.
* Không nên kéo dài việc tự sử dụng thuốc mà cần có ý kiến bác sĩ khi:
- Có triệu chứng mới xuất hiện.
- Sốt cao (39,50C) và kéo dài hơn 3 ngày hoặc tái phát.
- Đau nhiều và kéo dài hơn 5 ngày.
Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc.
Uống nhiều rượu có thể gây tăng độc tính với gan của Paracetamol, nên tránh hoặc hạn chế uống rượu.
Thuốc có chứa muối natri, cẩn trọng đối với người kiêng muối.
Ít gặp: Da: ban da.
Dạ dày - ruột: nôn, buồn nôn.
Huyết học: giảm bạch cầu trung tính, giảm toàn thể huyết cầu, giảm bạch cầu, thiếu máu.
Thận: bệnh thận, độc tính thận khi lạm dụng dài ngày.
Hiếm gặp: phản ứng quá mẫn.
Có thể gây suy gan (do hủy tế bào gan) khi dùng liều cao, kéo dài.
Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Uống dài ngày liều cao Paracetamol làm tăng nhẹ tác dụng chống đông của Coumarin và dẫn chất Indandion.
Cần chú ý đến khả năng gây hạ sốt nghiêm trọng ở người bệnh dùng đồng thời Phenothiazin và liệu pháp hạ nhiệt.
Thuốc chống co giật (Phenytoin, Barbiturat, Carbamazepin) gây cảm ứng enzym ở microsom thể gan, có thể làm tăng tính độc hại gan của Paracetamol do tăng chuyển hóa thuốc thành những chất độc hại với gan.
Dùng đồng thời Isoniazid với Paracetamol có thể dẫn đến tăng nguy cơ độc tính với gan.
Hộp 4 vỉ x 4 viên.
Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang
Paracetamol Inf.1g/100ml BIVID
Paracetamol GES 10mg/ml Inf.100ml
Copy ghi nguồn : trungtamthuoc.com